Hắn quá tập trung đi theo dấu chân đến nỗi đụng phải cái mà Rainsford đã bố trí trước khi kịp nhìn thấy. Chân đại tá chạm cành cây nhô ra đóng vai trò cò súng. Đúng lúc chạm vào đó, đại tá cảm nhận được nguy hiểm và nhảy lùi ra phía sau khéo léo như một con khỉ. Nhưng đại tá không đủ nhanh; cây chết, tựa nhẹ trên cây sống, mà Rainsford đã chặt, sụp đổ xuống thật mạnh và trúng đại tá, trượt dọc theo vai đại tá. Nếu không phản xạ nhanh, thì chắc chắn đại tá đã bị đè bẹp dưới khối cây. Đại tá choáng váng, nhưng không ngã và không thả súng. Đại tá đứng đó bất động, xoa cái vai bị trúng. Rainsford lại bị nỗi sợ dày vò khi nghe tiếng cười chế giễu của đại tá vang lên trong rừng.
- Rainsford ơi, đại tá la lên, nếu ông ở tầm nghe, như tôi đoán, thì xin cho tôi có lời khen. Rất ít người biết làm một cái bẫy người như ở Mã Lai. Cũng may cho tôi, tôi từng đi săn ở bán đảo Malacca. Ông là người rất thú vị, ông Rainsford à. Bây giờ tôi sẽ đi băng bó vết thương. Chỉ bị thương nhẹ thôi mà. Rồi tôi sẽ quay lại, tôi sẽ quay lại.
Khi đại tá, đang xoa cái vai đau, đã đi xa rồi, Rainsford tiếp tục mở cửa gỗ chạy trốn. Bây giờ đúng là một cuộc tháo chạy, một cuộc tháo chạy dữ dội, điên cuồng, suốt mấy tiếng đồng hồ. Hoàng hôn xuống, rồi màn đêm, nhưng Rainsford vẫn tiến tới với cùng tốc độ. Nền đất mềm hơn dưới giày mọi của anh: cây cối rậm rạp um tùm hơn; côn trùng tấn công để đốt anh. Khi tiến tới, chân anh lún xuống bùn. Rainsford cố rút ra, nhưng bùn lầy cứ hút chân anh thật mạnh, như một con đỉa to tướng. Chỉ bằng nỗ lực rất lớn, Rainsford mới kéo cái chân ra được. Bây giờ Rainsford đã biết mình đang ở đâu: Đầm Lầy Chết Chóc và vùng cát lún. Rainsford nắm chặt hai tay cứng ngắc, như thể sự bình tĩnh của anh là một cái gì đó hữu hình đang bị một kẻ nào đó trong bóng tối toan giật lấy khỏi tay anh. Nền đất mềm nhũn làm anh nảy ra một ý. Rainsford lùi xa khoảng vùng cát lún khoảng một chục mét rồi tiến hành lục soát, y như một con hải ly thời tiền sử khổng lồ.
Hồi thời chiến, Rainsford từng đào chỗ trú cho mình ở Pháp khi mà mỗi giây trễ nãi có thể gây ra cái chết. Lúc đó chỉ là một trò giải trí bình yên so với việc anh đang làm bây giờ. Hố trở nên sâu hơn. Khi miệng hố cao hơn vai, Rainsford bước ra, chặt vài cây nhỏ cứng chắc, gọt đầu cho nhọn làm thành chông. Anh cắm dưới hố, mũi nhọn hướng lên trên. Bằng ngón tay nhanh nhẹn như bay, Rainsford dệt một tấm thảm thô sơ bằng cỏ và cành cây, che lại miệng hố. Rồi ướt đẫm mồ hôi, người ê ẩm do mệt mỏi, Rainsford núp sau gốc cây bị sét làm cháy.
Rainsford biết kẻ truy lùng mình đang rất gần. Anh nghe tiếng chân bước trên nền đất mềm. Gió đêm mang đến cho anh mùi thuốc lá của đại tá. Rainsford có cảm giác đối thủ đang tiến tới với độ nhanh bất bình thường. Không mò mẫm, từng bước một. Từ chỗ núp, Rainsford không thể nhìn thấy đại tá và cái bẫy. Trong vòng một phút, Rainsford như sống qua một năm trời. Rồi anh muốn hét lên vui mừng khi nghe tiếng cành cây kêu rắc lúc nắp bẫy vỡ ra. Rồi có tiếng thét đau đớn khi chông nhọn có tác dụng. Khi đó Rainsford lao ra khỏi chỗ núp, rồi kinh hoàng lùi lại sát cửa nhựa. - Công việc xuất sắc, ông Rainsford à, giọng nói của đại tá la đến. Cái bẫy cọp kiểu Miến Điện của ông đã làm mất mạng con chó giỏi nhất của tôi. Ông lại ghi thêm được một điểm. Để tôi xem ông làm gì được chống lại cả bầy chó săn. Bây giờ tôi về nhà nghỉ đây. Cám ơn ông về buổi tối vui thích này.
Lúc rạng sáng, Rainsford, đang nằm gần đầm lầy, bị đánh thức bởi một tiếng động khiến anh hiểu ra mình chưa biết hết về nỗi sợ hãi. Tiếng động xa, yếu và không rõ ấy, Rainsford đã nhận ra: tiếng sủa của bầy chó săn.
Rainsford biết rằng có thể có hai quyết định. Ở lại tại chỗ và chờ đợi, tương đương với tự sát. Bỏ chạy, là chỉ đẩy lùi việc tất yếu phải xảy ra. Rainsford ở lại đó suy nghĩ một hồi. Một ý nghĩ nảy vào đầu anh, dường như có bóng dáng cơ may bay thoáng qua. Anh siết chặt dây nịt, đi về hướng ngược lại với đầm lầy.
Tiếng sủa của bầy chó săn nghe gần lại; gần hơn, càng lúc càng gần lại, luôn luôn gần lại dần. Rainsford trèo lên cây trên một đồi nhỏ. Cách đó khoảng nửa cây số, Rainsford thấy bụi cây động đậy. Ánh mắt căng thẳng của Rainsford nhìn thấy hình bóng gầy của đại tá Zaroff. Ngay phía trước đại tá, Rainsford thấy một hình bóng khác có đôi vai vuông vức nhô ra khỏi cỏ cao. Đó là Ivan, tên khổng lồ. Trông hắn như bị một lực vô hình kéo về phía trước. Rainsford suy ra hắn đang cầm dây dắt bày chó săn.
Chẳng bao lâu bọn chúng sẽ đến chỗ Rainsford. Trí óc Rainsford hoạt động rất nhanh. Và anh nhớ đến một cái mẹo mà dân bản xứ ở Ouganda đã chỉ cho anh. Rainsford trượt xuống đất, chụp lấy một cây con mềm dẻo, cột con dao vào đó, lưỡi dao hướng ra con đường mòn. Anh dùng cọng cây nho dại, bẻ và cột cây con lại. Rồi Rainsford chạy hết sức mình. Tiếng bày chó săn tăng lên khi chúng phát hiện dấu vết mới mẻ. Bây giờ Rainsford đã biết một con thú bị dồn đến bước đường cùng không có cửa abs để thoát cảm thấy như thế nào. Rainsford phải dừng lại để thở. Tiếng chó sủa chấm dứt đột ngột và tim của Rainsford cũng dừng theo. Có lẽ bọn chúng đã đến chỗ con dao.
Rainsford leo lên cây, nhìn lại phía sau. Bọn rượt theo anh đã đứng lại. Nhưng tia hy vọng len trong lòng Rainsford khi leo lên cây lại tan biến. Trong thung lũng không sâu, Rainsford thấy đại tá Zaroff vẫn đứng đó. Nhưng Ivan đã biến mất. Con dao, bắn ra nhờ kéo cây con, đã không phải không trúng đích.
Rainsford chỉ vừa kịp thả mình trở xuống đất, thì tiếng sủa vang lên tiếp.
- Bình tĩnh! Bình tĩnh! Bình tĩnh! Rainsford hổn hển đâm thẳng về phía trước.
Bày chó săn vẫn cứ tiến lại gần. Rainsford chạy ra chỗ trống. Anh ra đến đó. Bờ biển. Phía bên kia vịnh, Rainsford nhìn thấy lâu đài đá xám rùng rợn. Không đầy ba mét phía dưới, sóng biển kêu rít và gầm gừ. Rainsford lưỡng lự. Anh nghe tiếng bày chó săn. Khi đó, Rainsford nhào xuống biển, thật xa.
Khi đại tá và đàn chó săn đến chỗ Rainsford đã nhảy xuống biển, đại tá dừng lại. Đại tá đứng đó nhìn suốt vài phút, quan sát biển xanh mênh mông. Rồi đại tá nhúng vai, ngồi xuống, uống hớp cognac trong cái chai bạc, châm điếu thuốc thơm, hát lầm rầm một điệu nhạc mà ông ưa thích.