Dãy rừng chằng chịt liên tục viền dọc theo bờ biển
Rainsford không thấy đâu đường mòn nào trong mớ cây và cỏ đó. Đi dọc theo bờ biển dễ hơn; Rainsford lội bì bõm trong nước. Anh dừng lại không xa chỗ anh đã lên bờ.
Một sinh thể bị thương, có lẽ là một con thú to xét theo dấu vết, đã xông vào bụi cây. Cây cỏ bị đè nát và lớp rêu bị rách. Tại một điểm, có một vệt đỏ sậm trên cỏ. Một vật sáng sáng thu hút sự chú ý của Rainsford. Đó là một vỏ đạn trống không.
- Đạn hai mươi hai ly, Rainsford nhận xét. Lạ thật. Bởi vì chắc con thú to lắm. Chắc người săn phải gan dạ lắm mới dám tấn công nó bằng súng cỡ nhỏ như thế. Rõ ràng con thú đã tự vệ. Có lẽ ba phát súng mà mình nghe đã được bắn trong khi người săn đuổi theo con thú cho đến đây rồi kết liễu nó.
Rainsford xem xét thật kỹ nền đất và phát hiện cái mình muốn tìm: dấu vết ủng săn. Dấu chân quay về hướng vách đá và đi theo hướng mà Rainsford đã đi. Rainsford nóng lòng háo hức bước đi nhanh, đôi khi bị trượt trên một cành cây mục hay một cục đá rung rinh, nhưng anh vẫn tiến tới. Màn đêm bắt đầu rơi xuống đảo.
Bóng tối buồn tẻ bao trùm lên biển và rừng khi Rainsford nhìn thấy ánh đèn hắt hiu qua khe cửa nhựa hàn quốc. Rainsford tìm ra ánh sáng ở một khúc quẹo bờ biển. Thoạt đầu anh nghĩ mình đang đứng trước một ngôi làng, bởi vì có rất nhiều ánh sáng. Nhưng khi tiến tới, Rainsford sửng sốt thấy rằng tất cả mọi điểm sáng đó xuất phát từ một tòa nhà to tướng và cao lớn, có những tháp nhà đâm sâu lên cao vào bóng đêm. Mắt Rainsford nhìn ra đường nét mơ hồ của một tòa lâu đài vĩ đại sừng sững trên một vách đá cao. Ba mặt lâu đài đều có đá đâm sâu đến tận chỗ sóng biển vỗ vào. - Ảo ảnh, Rainsford tự nhủ.
Nhưng khi mở cổng có song sắt to lớn, anh nhận ra đó không phải ảo ảnh. Các bậc thềm bằng đá là thật; cánh cửa gỗ đẹp đồ sộ có cái búa gõ hình quỷ cười khẩy cũng là thật, tuy nhiên bao trùm trên mọi thứ vẫn có một cái gì đó không thực. Rainsford nhấc búa gõ cửa lên, nó hơi gắt và kêu cọt kẹt như thể chưa bao giờ được dùng cho đến nay. Rainsford thả nó rơi xuống và giật mình khi nghe gầm vang lên. Một lần nữa, Rainsford nhấc búa gõ lên, rồi thả rơi xuống. Khi đó cánh cửa nhựa mở ra, mở ra đột ngột như có lò xo, và Rainsford đứng yên hấp háy mắt trước ánh sáng vàng mạnh tràn ra. Điều đầu tiên Rainsford nhìn thấy là một người đàn ông, một người to lớn, rắn chắc, có bộ râu đen dài đến tận thắt lưng. Người đàn ông cầm trong tay một khẩu súng lục nòng dài chỉ thẳng vào tim Rainsford. Trong mớ lông rậm phủ mặt ông, có hai con mắt nhỏ đang nhìn Rainsford.
- Xin anh đừng sợ, Rainsford nói với một nụ cười thật dễ thương. Tôi không phải là kẻ trộm; tôi bị rơi từ một chiếc tàu. Tên tôi là Sanger Rainsford, đến từ New York City.
Ánh nhìn người đàn ông vẫn hung hăng.
Khẩu súng vẫn chĩa đến cứng đờ như thể tên khổng lồ này là một pho tượng. Không có gì để lộ rằng ông hiểu lời nói của Rainsford, hay thậm chí rằng ông nghe thấy lời anh nói. Ông mặc bộ đồng phục màu đen có lông xám.
- Tôi là Sanger Rainsford, từ New York, Rainsford nhắc lại. Tôi bị rơi xuống biển từ một chiếc tàu. Tôi đói bụng.
Thay vì trả lời, người đàn ông dùng ngón tay kéo cái bậc búa súng lên. Rainsford thấy ông đưa bàn tay không cầm súng lên trán để chào theo kiểu quân đội. Ông chập hai gót chân lại với nhau kêu đánh cách, rồi đứng nghiêm. Một người đàn ông khác đang bước xuống cầu thang rộng lớn bằng đá hoa cương. Ông nói bằng một giọng kiểu cách, có lai giọng nước ngoài nhẹ làm nổi bật cách nói chậm rãi và chính xác cố tình của ông:
- Thật là vinh hạnh và thích thú khi được đón tiếp tại nhà ông Sanger Rainsford, nhà săn bắn lừng danh.
Theo bản năng, Rainsford bắt tay ông.
- Tôi đã đọc quyển sách của ông về chuyện săn beo tuyết ở Tây Tạng, người đàn ông giải thích. Tôi là đại tá Zaroff.
Điều đập vào mắt Rainsford trước tiên là cái đẹp rất đặc biệt của người đàn ông này, sau đó là nét độc đáo, gần như lạ lùng của gương mặt ông ta. Đó là một người đàn ông cao lớn, chắc đã nhiều tuổi, vì mái tóc ông bạc trắng. Nhưng chân mày rậm, cũng như bộ ria nhọn của ông lại đen thui như màn đêm mà Rainsford vừa mới thoát ra được. Mắt ông cũng đen, hai gò má cao, mũi thẳng, gương mặt gầy, nước da không trắng lắm, diện mạo của một người quen chỉ huy: gương mặt của một nhà quý tộc. Đại tá quay sang con người khổng lồ mặc đồng phục ra hiệu. Tên khổng lồ cất súng, chào kiểu quân đội rồi rút lui.
- Ivan là một người có sức mạnh phi thường, đại tá nhận xét, nhưng rất xui là anh ấy bị câm và điếc. E rằng anh hơi khờ, nhưng rất hung dữ như người thuộc chủng tộc đó.
- Anh ấy là người Nga à?
- Lính Cô dắc, đại tá cười để lộ môi đỏ và răng nhọn. Tôi cũng vậy. Nhưng, - ông nói, ta không nên đứng ở đây nói chuyện. Ta sẽ có dịp nói chuyện sau. Hiện anh cần quần áo, thức ăn và nghỉ ngơi. Anh sẽ có tất cả. Chỗ này nghỉ ngơi rất tốt.
Ivan đã xuất hiện lại, và đại tá nói chuyện với Ivan bằng cách nhấp nháy môi mà không thốt ra âm thanh nào.
- Ông Rainsford à, xin mời ông cứ đi theo Ivan, đại tá nói. Tôi sắp ăn cơm tối, thì ông đến. Tôi sẽ chờ ông. Tôi nghĩ ông sẽ mặc vừa quần áo của tôi.
Rainsford bước theo tên khổng lồ im lặng vào một gian phòng rộng mênh mông có xà lộ rõ trên trần và có một cái giường có thể chứa sáu người. Ivan soạn một bộ complê mặc buổi tối. Khi mặc vào, Rainsford thấy bộ đồ xuất xứ từ một nhà may ở Luân Đôn, mà nhà may này chỉ dùng kéo và kim may để phục vụ những người tối thiểu phải có chức công tước.
Phòng ăn, nơi Ivan dẫn Rainsford vào, đáng chú ý ở nhiều mặt. Nó lộng lẫy theo kiểu trung cổ và làm ta nghĩ đến phòng lớn của một vị nam tước thời phong kiến, với tường lát gỗ sồi, trần nhà rất cao, cái bàn rộng có thể cho bốn chục người ngồi. Xung quanh phòng ăn, nhìn thấy đầu nhồi rơm của đủ loại thú: sư tử, cọp, voi, tuần lộc, gấu, loại lớn nhất, hoàn hảo nhất mà Rainsford từng thấy. Đại tá ngồi ở cái bàn lớn, một mình.
- Uống một ly cốc tai, ông Rainsford nhé, đại tá gợi ý.
Ly cốc tai tuyệt hảo, và Rainsford để ý rằng toàn bộ đồ dùng: náp bàn, khăn ăn, muỗng nĩa bạc, đồ sứ đều hết sức tinh xảo.
Rainsford và đại tá ăn món súp yêu thích của người Nga, món súp đậm đà, đỏ, có kem hơi chát. Đại tá Zaroff nói như để xin lỗi:
- Chúng tôi đã cố gắng hết sức để lưu giữ được những tiện nghi của nền văn minh. Tôi xin ông bỏ qua những điều không phải. Chúng tôi ở quá xa đường xá mà! Ông có cho rằng rượu sâm banh bị dở đi do vận chuyển xa không?
- Hoàn toàn không, Rainsford tuyên bố.
Rainsford thấy đại tá là một chủ nhà nhã nhặn, chăm lo cho khách. Tuy nhiên có một cái gì đó khiến Rainsford thấy khó chịu. Mỗi khi ngước mắt lên khỏi dĩa, Rainsford thấy đại tá đang quan sát mình, ước chừng giá trị của mình.
- Có thể ông ngạc nhiên rằng tôi biết tên ông, đại tá Zaroff nói. Đó là vì tôi đã đọc mọi quyển sách đã xuất bản về đề tài săn bắn, bằng tiếng Anh, Pháp, Nga. Tôi chỉ có một niềm đam mê trong đời: săn bắn!
- Đại tá có những con thú tuyệt đẹp, Rainsford vừa ăn món thịt bò nấu rất khéo vừa nói. Con trâu ở Cap kia là con lớn nhất tôi từng được thấy.
- Ô! con này, thưa ông, là con quái vật...
- Tôi luôn cho rằng, Rainsford nói, trong số thú săn to, con trâu ở Cap là loại nguy hiểm nhất.
Đại tá không trả lời ngay. Đại tá mỉm cười với nụ cười kỳ lạ trên cặp môi đỏ.
- Không phải, thưa ông, ông lầm rồi; trâu ở Cap không phải là loại thú săn nguy hiểm nhất đâu.
Đại tá uống rượu vang từng hớp nhỏ.
- Tại đây, trong khu bảo tồn của tôi, tôi săn một loại thú nguy hiểm hơn nhiều.
Rainsford tỏ ra ngạc nhiên.
- Trên đảo này có thú săn to à?
Đại tá gật đầu.
- Thứ to nhất.
- Thế à?
- Ồ, dĩ nhiên, nó không sống tự nhiên. Tôi phải đưa nó lên đảo.
- Thưa đại tá, vậy đại tá đã du nhập loại thú săn nào vậy? Rainsford hỏi. Cọp à?
Đại tá mỉm cười.
- Không, đại tá nói. Từ nhiều năm tôi đã chán săn cọp rồi. Tôi đã khai thác hết khả năng của loài này. Cọp không còn làm tôi rùng mình nữa. Tôi không phải chịu mối nguy hiểm nào cả. Ông Rainsford à, tôi sống vì nguy hiểm.
- Nhưng loại thú săn nào...? Rainsford định nói.
- Tôi sẽ nói cho ông biết, đại tá nói. Ông sẽ thấy thích thú, tôi biết, nhưng tôi khiêm nhường thừa nhận rằng có lẽ tôi đã thành công một thứ rất hiếm lạ. Tôi đã phát minh một cảm giác mới mẻ. Tôi rót cho ông một ly rượu khác, ông Rainsford nhé?